Cũng theo WHO, bệnh tả đang bùng phát trở lại ở một số quốc gia, bao gồm một số quốc gia không báo cáo số ca bệnh đáng kể trong nhiều năm, như Chad và Cộng hòa Congo, trong khi các quốc gia khác, như Cộng hòa Dân chủ Congo, Nam Sudan và Sudan, đang trải qua các đợt bùng phát tiếp tục từ năm 2024, với sự mở rộng đáng kể về mặt địa lý.
Tại Việt Nam, trong 10 năm gần đây, Việt Nam chưa ghi nhận trường hợp mắc bệnh tả. Khu vực Châu Âu và Tây Thái Bình Dương cũng chưa ghi nhận bất kỳ đợt bùng phát nào, chủ yếu các nước ghi nhận ở khu vực khu vực Đông Địa Trung Hải và khu vực châu Phi. Tuy nhiên không loại trừ nguy cơ bệnh tả xâm nhập Việt Nam do sự giao lưu thương mại, du lịch rộng mở của nước ta với các nước khác trên thế giới và có thể lây lan ra cộng đồng.
Để chủ động sẵn sàng phòng chống bệnh tả, Cục Phòng bệnh Bộ Y tế khuyến cáo người dân thực hiện các biện pháp như:
- Vệ sinh cá nhân: Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng trước khi chế biến thức ăn, trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh.
- Vệ sinh môi trường, thu gom rác, diệt ruồi.
- An toàn vệ sinh thực phẩm: Thực hiện ăn chín, uống sôi.
- Bảo vệ nguồn nước, dùng nước sạch.
- Nhanh chóng báo cáo khi có người bị tiêu chảy cho cơ sở y tế gần nhất.
Tả là một bệnh truyền nhiễm có các triệu chứng chính là tiêu chảy, mất nước và rối loạn điện giải cấp tính, có thể gây thành dịch lớn với tỷ lệ tử vong cao. Tác nhân gây bệnh tả là vi khuẩn tả Vibrio cholerae, nhóm huyết thanh O1 và O139, gồm 2 týp sinh học: týp cổ điển (Classica) và týp E1 Tor. Mỗi týp sinh học lại gồm 3 týp huyết thanh là Inaba, Ogawa và Hikojima. Ở Việt Nam chủ yếu gặp 2 týp huyết thanh là Inaba, Ogawa. Bệnh tả lây theo đường tiêu hóa, chủ yếu qua ăn, uống. Vi khuẩn tả xâm nhập vào đường tiêu hóa của người lành từ nước uống và thức ăn có nhiễm vi khuẩn tả, đặc biệt là thức ăn có nguồn gốc thủy hải sản. Khoảng 75% người nhiễm vi khuẩn tả là không có biểu hiện triệu chứng bệnh, tuy nhiên họ vẫn đào thải vi khuẩn ra môi trường trong vòng 7 - 14 ngày. Trong số những người có biểu hiện triệu chứng, 80% là ở thể nhẹ và vừa, 20% có biểu hiện mất nước nặng. Vi khuẩn tả có thể tồn tại lâu ở vùng nước lợ nơi cửa sông hay ven biển. Trong nước vi khuẩn tả sống ký sinh chủ yếu ở các loài động, thực vật thủy sinh phù du như rong, tảo, đặc biệt ở các động vật giáp xác như tôm, cua, sò, ốc, hến…
Hồng Hạnh